Kinh tế Nhà nước Mới (Bồ Đào Nha)

Salazar quan sát mô hình Cầu Santa Clara của Edgar CardosoCoimbra

Vấn đề cấp bách của Bồ Đào Nha vào năm 1926 là khoản nợ công khổng lồ. Salazar vài lần từ chối làm bộ trưởng tài chính, lấy lý do sức khỏe kém, chăm sóc cha mẹ già và thích lối sống nghiên cứu ẩn dật. Năm 1927, Sinel de Cordes được bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chính, nhưng nợ công tiếp tục tăng. Bồ Đào Nha thương lượng vay tiền từ ngân hàng Baring Brothers, có Hội Quốc Liên tán thành, nhưng không thể chấp nhận các điều kiện. Lúc Bồ Đào Nha có nguy cơ phá sản thì Salazar mới chịu ra phục vụ. Ông được Tổng thống tân cử Óscar Carmona bổ nhiệm vào ngày 26 tháng 4 năm 1928. Tuy nhiên, Salazar ra điều kiện Carmona phải cho ông được toàn quyền quyết định tất cả các khoản chi của chính phủ.

Trong vòng một năm, Salazar cân bằng ngân sách, ổn định tỷ giá. Sau khi lập lại kỉ cương đối với chi thu ngân sách nhà nước và thi hành các biện pháp thắt lưng buộc bụng, Bồ Đào Nha lần đầu tiên bội thu ngân sách và tiếp tục bội thu nhiều lần.[47]

  Quốc gia thành viên Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu từ năm 1995
  Cựu nước thành viên, hiện tại thành viên Liên minh châu Âu. Bồ Đào Nha gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu năm 1986 (hiện tại là Liên minh châu Âu), rời Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu sau khi làm thành viên sáng lập vào năm 1960.

Từ năm 1950 tới khi Salazar qua đời vào năm 1970, GDP bình quân đầu người tăng 5,7% hàng năm. Đầu thập niên 1960, các chuyên gia kinh tế học, kỹ thuật-công nghiệp được trọng dụng, mở ra thời kỳ phát triển kinh tế mới. Bồ Đào Nha bắt đầu thu hút đầu tư nước ngoài. Nền công nghiệp tiếp tục phát triển trong suốt thập niên 1960. Salazar thi hành chính sách kinh tế mở cửa hơn. Bồ Đào Nha gia nhập Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu vào năm 1960, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế vào năm 1961, Quỹ Tiền tệ Quốc tếNgân hàng Thế giới. Bồ Đào Nha cũng ký kết Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. Xuất khẩu tăng 52%, nhập khẩu tăng 40%. Từ năm 1960 đến năm 1973, GDP tăng trưởng 6,9% hàng năm, sản xuất công nghiệp tăng 9%, tiêu dùng cá nhân tăng 6,5%, tổng vốn cố định tăng 7,8%.[6]

GDP bình quân đầu người của Bồ Đào Nha vào năm 1960, khi Salazar bắt đầu thi hành chính sách kinh tế mở cửa, chỉ bằng 38% trung bình Cộng đồng châu Âu (EC-12). Năm 1968, GDP bình quân đầu người đạt 48% trung bình EC-12. Năm 1973, đạt 56.4%.[7] Nhìn chung, sau thời kỳ đình trệ kinh tế trước năm 1914, rồi thời kỳ hỗn lão của nền Đệ nhất Cộng hòa, nền kinh tế Bồ Đào Nha phục hồi chút ít, rồi tăng trưởng mạnh sau năm 1950, bắt đầu tiến kịp các nước giàu nhất Tây Âu.[8] Sự tăng trưởng kinh tế từ năm 1960 tới năm 1973 tạo cơ hội cho Bồ Đào Nha hội nhập với các nền kinh tế phát triển của Tây Âu, ngay cả khi phải chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh đắt đỏ ở các thuộc địa châu Phi. Cá nhân, tổ chức thay đổi xu hướng sản xuất, tiêu dùng nhờ sự di cư, buôn bán, du lịch và đầu tư nước ngoài. Cùng lúc, nền kinh tế ngày càng phức tạp, tạo ra các thách thức kỹ thuật và tổ chức, dẫn tới sự hình thành các nhóm quản lý, nghề nghiệp hiện đại.[48]

Kinh phí quân sự của Bồ Đào Nha (đỏ) lúc có chiến sự ở các thuộc địa; một conto bằng $1000

Đối với các thuộc địa thì Bồ Đào Nha một mặt dùng quân đội để dẹp loạn, mặt khác khuyến khích người Bồ Đào Nha tới định cư, mở rộng thương mại, trao đổi vốn và quy định đơn vị tiền tệ chung cho cả đế quốc, gọi là Khu vực Escudo để liên kết chặt chẽ hơn về mặt hành chính, kinh tế. Chính quyền đặt thời hạn tháng 1 năm 1964 bỏ thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu từ các thuộc địa. Các thuộc địa thì được tiếp tục áp thuế đối với hàng nhập khẩu từ Bồ Đào Nha, nhưng ở mức thấp hơn, thường là giảm 50% so với mức thuế áp đối với hàng hóa từ ngoài Khu vực Escudo. Nền kinh tế của các thuộc địa bùng nổ, nhất là của AngolaMozambique.

Các thuộc địa của Bồ Đào Nha dưới nền Nhà nước Mới: AngolaMozambique là hai thuộc địa lớn nhất

Thủ tướng Marcello José das Neves Caetano đẩy nhanh tiến độ mở cửa nền kinh tế sau khi Salazar bị đột quỵ. Bồ Đào Nha bãi bỏ các quy định giấp phép đối với hầu hết các ngành nghề. Năm 1972, Bồ Đào Nha ký hiệp định tự do thương mại với Cộng đồng châu Âu. Hiệp định quy định Bồ Đào Nha phải bãi bỏ hạn chế đối với hầu hết các hàng hóa nhập khẩu từ Cộng đồng châu Âu trước năm 1980, đối với 10% tổng nhập khẩu gồm những mặt hàng nhất định thì được gia thời hạn năm năm. Từ năm 1960 trở đi, tư cách thành viên Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu và vốn đầu tư nước ngoài giúp Bồ Đào Nha hiện đại hóa ngành công nghiệp, đa dạng hóa xuất khẩu. Caetano thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải cách bảo hiểm xã hội như cấp lương hưu cho người lao động nông thôn không có cơ hội tham gia bảo hiểm xã hội. Vài dự án quy mô quốc gia được khởi công như nhà máy lọc dầu ở Sines.

Tuy tư liệu sản xuất tập trung vào một thiểu số tập đoàn tài chính-công nghiệp, nền kinh tế Bồ Đào Nha cho phép các cá nhân trung lưu, có bằng đại học thượng tiến lên các vị trí quản lý chuyên nghiệp. Các công ty lớn, tiên tiến nhất (và được thành lập gần đây nhất) cung cấp cơ hột tốt nhất cho cá nhân được tuyển dựa trên năng lực thay vì quan hệ con ông cháu cha.

Đầu thập niên 1970, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự gia tăng mức tiêu dùng, nhu cầu xe cộ gây sức ép đối với hạ tầng giao thông vận tải. Chính quyền nhượng quyền 30 năm cho công ty Brisa – Autoestradas de Portugal thiết kế, xây dựng, quản lý, duy trì hệ thống cao tốc hiện đại.

Nền kinh tế của Bồ Đào Nha và các thuộc địa trước thềm Cách mạng Cẩm chướng tăng trưởng mạnh hơn hẳn mức trung bình châu Âu. Sức mua của hộ gia đình tăng. Các xu hướng tiêu dùng mới xuất hiện, thúc đẩy đầu tư vào máy móc mới và tiêu thụ hàng hóa bền, không bền.

Chính sách kinh tế của Nhà nước Mới khuyến khích, tạo điều kiện cho các tập đoàn lớn hình thành. Chính quyền giao một phần lớn nền kinh tế cho một vài tập đoàn. Các tập đoàn đều có mô hình kinh doanh giống như keiretsuszaibatsus Nhật Bản. Companhia União Fabril (CUF) là một trong những tập đoàn lớn, đa dạng nhất, tập trung kinh doanh trong các lĩnh vực cốt lõi như xi măng, hóa chất, hóa dầu, hóa chất nông nghiệp, vải, bia, thức uống, luyện kim, kỹ thuật hải quân, kỹ thuật điện, bảo hiểm, ngân hàng, giấy, du lịchkhai thác mỏ. Tập đoàn đặt trụ sở ở Bồ Đào Nha, nhưng có các chi nhánh, nhà máy, một vài dự án kinh doanh trên khắp Đế quốc, nhất là ở AngolaMozambique. Những công ty vừa khác chuyên kinh doanh về vải, gốm sứ, kính và thủy tinh, gỗ kỹ thuật, cá hộp, thực phẩm, du lịch và nông nghiệp. Ngoài ra, đa số người dân trọng nông nghiệp do nhiều gia đình chỉ sinh sống bằng nghề nông hay kiếm thêm thu nhập bằng nông nghiệp, chăn nuôi và lâm sản.

Nền kinh tế của các thuộc địa cũng có mức tăng trưởng ấn tượng từ thập niên 1920 trở đi. Tuy có chiến sự du kích, khủng bố giữa Bồ Đào Nha và các nhóm độc lập, AngolaMozambique liên tục tăng trưởng kinh tế, vài ngành nghề bùng nổ. Hai nước nổi tiếng quốc tế về dầu, cà phê, bông, hạt điều, dừa, gỗ, khoáng sản (như kim cương), kim loại (như sắt và nhôm), chuối, cam quýt, trà, thùa sợi, bia, xi măng, cá và các hải sản khác, thịt bò và vải. Du lịch cũng là ngành phát triển nhanh ở các thuộc địa châu Phi vì các khu nghỉ dưỡng biển cùng khu bảo tồn động vật hoang dã được xây dựng nhanh mà lại có nhu cầu. Ở Angola thì chống du kích thành công, nhưng ở Mozambique thì ít kiểm soát hơn, ở Guinea thì bế tắc nguy hiểm, nên chính quyền ra các chính sách để có được nguồn tiền bền vững cho chiến tranh. Ngày 13 tháng 11 năm 1972, chính quyền thành lập một quỹ đầu tư quốc gia để tài trợ chiến dịch chống du kích ở các thuộc địa.[49] Ngoài ra, cắt giảm kinh phí quân sự, tăng quân số bằng cách dùng thành viên dân quân không chính quy.[50][51][52][53]

Công đoàn không được thành lập và không có chính sách lương tối thiểu. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế vào thập niên 1960 cải thiện dân sinh của người dân. Các cuộc chiến tranh thuộc địa ở châu Phi bắt đàn ông đi lính, khiến cho phụ nữ đi làm ngày càng nhiều. Chính quyền thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thi hành vài cải cách bảo hiểm xã hội như cấp lương hưu cho người lao động nông thôn không có cơ hội tham gia bảo hiểm. Cải cách có ba mục đích: cải thiện công bằng, giảm mất cân đối ngân sách, rủi ro và tăng hiệu năng của nền kinh tế. Đóng góp bảo hiểm xã hội ít bóp méo thị trường và tiền tiết kiệm từ quỹ lương hưu được đem đầu tư vào nền kinh tế. Năm 1969, chính quyền công nhận công đoàn độc lập đầu tiên kể từ thập niên 1920.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà nước Mới (Bồ Đào Nha) http://ultramar.terraweb.biz/Noticia_joaobravodama... http://www.economist.com/world/mideast-africa/disp... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://digitalcommons.wcl.american.edu/cgi/viewcon... http://www.brown.edu/Departments/Portuguese_Brazil... http://libro.uca.edu/payne2/index.htm http://www.eric.ed.gov/contentdelivery/servlet/ERI... http://maltez.info/respublica/portugalpolitico/gru... http://www.portugal-info.net/history/second-republ...